Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

Tôi dự Họp mặt Truyền Thống ĐHSPKT




Mấy hôm trước, anh Hỗ Ngọc Điển thông báo cho biết sáng Chủ nhật 10-11-2012, sẽ có tổ chức họp mặt Cựu Sinh Viên Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật, Điển rủ tôi tham dự, tôi nhờ Điển giúp cho phương tiện đi, Điển cho biết sáng sớm sẽ đến rước, đưa tôi đến nhà Nhân rồi cùng đi xe ô-tô của Nhân.

Đúng hẹn và đúng 6 giờ 30, Điển chạy xe tới đón tôi, rồi đưa tôi tới nhà Nhân ở đường Hậu Giang, lúc ấy chưa đầy 7 giờ sáng.

Tôi bấm chuông, một lúc thì chị Hoàng vợ anh Nhân ra mở cửa cho chúng tôi vào. Điển và tôi đi trong sân nhà anh Nhân, có rất nhiều cây cảnh, chủ nhân hình như lâu ngày đã không chăm sóc tới những chậu mai, lài trâu, nguyệt quới, dây trầu bà, muồng… có vài cây tôi không biết, Điển giới thiệu nhưng tôi đã quên, nói chung là những cây cảnh có giá trị.

Chừng hai mươi phút sau, Nhân mới ra cho biết anh hẹn 7 giờ 30 chớ không phải 7 giờ sớm quá, một lát sau có thêm Hiệp đến. Thế là đông đủ, anh Nhân lái xe Van Toyota 7 chỗ ngồi đưa chúng tôi đi, trong đó có vợ anh chị Hoàng, anh Điển, anh Hiệp và tôi.

Lên đến nơi, gặp Thầy Niên đang hút thuốc bên vệ đường, trước giảng đường, tôi không thể nào tưởng tượng nổi đó là Thầy Niên, thầy dạy ở Bách Khoa Trung Cấp xưa kia, chúng tôi được mời lên Giảng đường ở lầu 6. Tại đây gặp lại anh Nguyễn Văn Quyền, Phó trưởng ban liên lạc Cựu sinh viên, Quyền trách tôi năm trước về không cho Quyền biết, thật ra tôi không có số điện thoại của Quyền.


 Trước khi lễ, tôi gặp lại Hội ở ban Đúc, Hội hỏi thăm Lương Văn Nhơn và Trang, mấy năm trước họ là thông gia, nay các cháu đã ly dị, con gái Nhơn lập gia đình với người khác, nay Nhơn đã có cháu nội, cháu ngoại đầy đủ.


Rồi buổi lễ tiến hành, diễn văn của Trưởng Ban tổ chức, phát biểu của cựu Hiệu Trưởng, của Cựu sinh viên, sau đó phát các xuất học bổng, quà tặng.

Vì Bí thư trường kiệm Hiệu Trưởng bận việc phát bằng cho sinh viên tốt nghiệp, nên khi Hiệu Trưởng đến, được mời phát biểu, đã nói khái quát về đường hướng giáo dục của nhà trường sắp tới, để hội nhập cùng các nước trong Hiệp hội Đông Nam Á. Cụ thể sẽ giảng dạy bằng Anh ngữ, một số môn học sẽ cải tiến chỉ học trên vi tính, ngay cả thực tập mà một số trường tân tiến đã áp dụng.



Trong phòng họp, tôi được gặp Nguyễn Khắc Cường, anh nhắc cho tôi nhớ trước đây anh có liên lạc với tôi qua Email.

Sau đó chụp hình chung gồm giáo chức và các cựu sinh viên, sau đó Hồ Ngọc Điển chụp riêng Hiệu Trưởng với một vài cựu sinh viên kỳ cựu.

 
Rồi tất cả được mời ra ngoài liên hoan nhẹ, ăn buffet, có bia Sàigòn và nước ngọt, tráng miệng có bánh ngọt và râu câu ướp lạnh, nghe nói Ban tổ chức đặt 250 phần, mỗi phần 70,000.00 đồng

Khi liên hoan, chúng tôi gặp lại anh Phạm Văn Đáo, cựu sinh viên khóa 1, cũng là giáo viên lâu năm của Trường, nay đã về hưu, làm cố vấn cho một công ty lớn. Tôi có hỏi thăm về Râm, Râm ở Long An vẫn khỏe mạnh nhưng lâu ngày Đáo chưa gặp lại.

Hồng, Nhân, Đáo, Tông, Hiệp, Hội, Điển

Tôi không ngờ gặp lại Nguyễn Văn Năng, giáo viên Nguyễn Trường Tộ, tôi có hỏi thăm Chiến. Năng cho biết anh đã về hưu, Chiến vẫn còn dạy. Vậy mà trước kia cô Thu, thư ký văn phòng cho biết không còn ai là người cũ ở lại Trường.


Vì Nguyễn Đức Lộc bệnh đau lưng, không thể ngồi lâu, đã không dự Họp mặt, nên chúng tôi kéo nhau đi thăm Lộc ở một quán cà phê võng trong khu Chợ Nhỏ, gần Trường Bộ Binh xưa.


Chúng tôi uống nước xong, chia tay Lộc và Hội, chúng tôi lên xe về, để hai anh chàng sẽ nằm lại nghỉ ngơi một chiều chủ nhật.


Lần trước được Quyền đưa tôi thăm lại Trường xưa, ngôi Trường mà năm 1972 Hội đồng giáo sư Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, từ bỏ chủ quyền do tòa Đại sứ Mỹ đền bù sau khi họ lấy cơ sở tại 25 bis Hồng Thập Tự, cạnh bót cảnh sát quận Nhất.


Tôi nhớ đến huyền thoại về một cây trong Trường, hiện nay vẫn còn, nhớ giáo sư Pháp Văn Nguyễn Tấn Lợi, những dãi lớp học, ký túc xá vắng vẻ trong những khi trực đêm, những ly cà phê đen ở quán Chiều Tím và những chai 33.

Hiệu trưởng Phan Kim Báu, Phạm Văn Tài, Trưởng phòng hành chánh Lê Bá Thanh, giáo sư Hồ Ngọc Thu, Bùi Khắc Triệu, Tạ Quang Mùi nay đã ra người thiên cổ. Còn Nguyễn Văn Phấn, Trần Hữu Phụng, Lê Trung Hoan, Hà Mộng Giao, Nguyễn Anh Dõng, Nguyễn Mai Ninh và cả tôi thành ra bầy chim viễn xứ.

Một ngày đáng nhớ về mái Trường xưa.
Sg. 10-11-2013

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

Lê Văn Mạnh và tôi



Mới đây mà đã ba năm rồi tôi chưa trở lại Cali, lần gần đây nhất tôi sang Cali vào năm 2010, lần đó tôi sang dự Hội ngộ Cao Thắng khóa 1956-1963, không kể đến những đồng môn Cao Thắng, lần đó tôi đã đi thăm và gặp rất nhiều người ở Nam-Bắc Cali.

Lê Văn Mạnh người đứng bên tay trái

Trong Hội ngộ, tôi đã gặp lại anh Mạnh và chị Mai, hai anh chị đã tiếp đãi chúng tôi ở nhà anh chị mấy hôm năm 2010, lần đó tôi sang Jan Jose không có ý định ở nhà anh chị Mạnh, tôi ở nhà một người thân, nhưng ngày hôm sau chủ nhà có cô em họ từ Texas sang, cũng là bạn của tôi tuổi học trò, tôi được đưa sang trú ngụ ở một nhà khác thì anh Mạnh đến thăm, tôi ngỏ ý muốn đến làm khách ở nhà anh Mạnh vài hôm, anh đồng ý ngay, thế là chúng tôi đến ở với anh chị Mạnh.

Lê Văn Mạnh và phu nhân

Nhờ vậy, anh Mạnh đã đưa tôi đi thăm Thầy Trần Minh Hoàng, nguyên là Phó Giám Đốc Nha Kỹ Thuật học vụ. Lúc Thầy Hoàng du học ở Mỹ về, dạy ngay Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, lớp tôi học với Thầy về Kỹ Nghệ Gỗ, năm đó tôi đến nhà Thầy nhiều lần, có khi ở lại ăn cơm gia đình của Thầy, có khi Thầy chở tôi lên làng Đại học thăm ông Trần Quang Diệu, Bộ Trưởng Bộ Y Tế có quan hệ gia đình với Thầy. Thầy Hoàng và anh Mạnh ở cách nhau chừng 10 phút đi bộ.

 Thầy Trần Minh Hoàng, anh Lê Văn Mạnh và các phu nhân

Trong mấy hôm đó, anh chị Mạnh đã đưa chúng tôi đi thăm Tu viện Kim Sơn, đi ra bãi biển, đi qua bên kia cầu Golden Gate, tới một thị trấn rồi từ đây đi phà trở lại San Francisco.


anh chị Lê Văn Mạnh và chúng tôi

Ở đây buổi trưa, chúng tôi đi ăn theo đúng tục ngữ “Ở nhà Tây, đi ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật”. Loanh quanh ở phố Tàu, xem những nữ trang, những quà kỷ niệm, rồi chúng tôi phải trở lại phà cho kịp chuyến cuối cùng trong ngày trước 5 giờ chiều. Đó là lần thứ ba chúng tôi đi chợ Tàu ở San Francisco, lần trước đi Hội Ngộ Vĩnh Nghiêm năm 1999, lần sau đi dự họp mặt anh em Cao Thắng, họ mời tôi đi train từ San Jose tới San Francisco, nhưng giờ chót tôi đi với mấy người bạn AHVN, cho nên lần này đã quen với mấy con đường và các cửa hàng cần ghé mắt xem qua.
Lê Văn Mạnh và tôi

Khi anh Mạnh lái xe về tới San Francisco, trời đã tối, chúng tôi gọi điện mời Thầy Trần Minh Hoàng đi ăn, thoạt tiên Thầy từ chối, nhưng tôi cho biết hôm sau đã rời San Jose đi xuống Santa Ana, nên Thầy cô phải nhận lời mời của chúng tôi.

 Trước đó, có một hôm, anh Nguyễn Hữu Hồng Đức Chủ tịch Ái hữu Cựu Sinh Viên Vạn Hạnh, mời chúng tôi tới nhà dùng cơm với các Cựu sinh viên thuộc Phân khoa Khoa học Xã hội Vạn Hạnh, anh Mạnh cũng là Sinh viên tốt nghiệp khoa này, họ quen biết nhau cả. Với tôi, năm 1960 tôi cùng một Đoàn Huynh Trưởng đi tham quan Đà Lạt, anh Đức năm đó mới lên 5 hay 6 theo thân sinh, ban ngày Đức theo tôi đi chơi, tối ngủ với tôi, vì chỗ quen biết thân tình đó, Đức mời chúng tôi dùng cơm tối với nhừng người bạn để chuyện trò, ôn lại kỷ niệm dưới mái Trường Đại học Vạn Hạnh.

 anh chị Nguyễn Hữu Hồng Đức, chị X, anh chị Lê Văn Mạnh

Đó là lần, anh chị Mạnh và chúng tôi sống bên nhau trong mấy ngày dưới mái gia đình anh Lê Văn Mạnh, cho nên trong chúng tôi còn nhiều kỷ niệm, tôi mong anh chị có dịp về lại Lexington, nơi anh tới Mỹ định cư đầu tiên và theo học Đại học Kentucky, để tôi mời anh chị tới nhà tôi ở chơi vài hôm.

Khi còn đi học ở Cao Thắng, anh Mạnh học sau tôi 1 năm, và sau khi tôi thi rớt, năm ấy anh thi nhảy, nên tôi học lại năm Đệ nhị thì anh học Đệ nhất, cho nên cũng không học chung. Đến khi vào Sư Phạm Kỹ Thuật anh vào trước tôi 1 năm, học cùng Trường, sinh viên lại rất ít, nên sự quen biết nhau hơn.

Trước đó, anh và tôi có đi sinh hoạt GĐPT nhưng không cùng đơn vị, có biết nhau. Thời đó người ta thường nói “Phong, Mạnh, Hiến”. Anh Phong từ lâu tôi không tin tức, còn Nguyễn Tống Hiến ở Oklahoma City. Năm 2011, về Việt Nam gặp các bạn Cao Thắng, anh Đặng Ngọc Hữu, không học cùng cấp lớp với tôi, Hữu hỏi: “Phong, Mạnh, Hiến bây giờ ra sao ?” Tôi trả lời, có ở nhà anh Mạnh vài hôm, có biết Hiến ở Mỹ nhưng chưa gặp. Khi về Mỹ, tôi có chuyển qua Email cho anh Mạnh cũng như Hiến những lời thăm hỏi của Đặng Ngọc Hữu, từ đó tôi không được tin gì của các anh báo cho tôi.

Sáng sớm thứ tư 10-7-2013, tôi vừa ngồi xuống chiếu Thiền, nghe chuông điện thoại reo, tôi đứng lên để nghe điện thoại, anh Nguyễn Thanh Bình ở Bắc Cali báo nhận được Email từ anh Nguyễn Văn Hiếu ở Việt Nam, báo tin Lê Văn Mạnh đã qua đời!

Tôi thật bàng hoàng mà anh Bình cũng không thể tin, tôi đã biết anh Lê Văn Mạnh khỏe mạnh lại, anh đã dự Họp mặt của các anh em Cao Thắng ở San Jose vào dịp Hè năm 2012, không có tin chi anh bệnh hoạn, sao lại có tin anh mất, mà là tin từ Việt Nam báo cho biết. Anh Nguyễn Thanh Bình và tôi cùng hứa sẽ kiểm tra sau vì lúc đó Cali mới có 4 giờ sáng.

Lê Văn Mạnh phát biểu trong Hội ngộ CT San Jose 2012

Sau khi xả Thiền, tôi mở Email, mới biết Hiếu được tin từ anh Nguyễn Đình Lâm, giáo sư Cao Thắng, tôi biết đây là sự thật vì anh Lâm và anh Mạnh cùng học chung lớp ở Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, cùng là giáo sư Trường Cao Thắng, cho nên đây là tin đúng, tin nhanh, anh Lâm chỉ cho biết anh Mạnh mất lúc 7 giờ, sanh năm 1942, thọ 71 tuổi. Do vậy, chi tiết còn chờ gia đình Cáo phó.

Như thế, anh Lê Văn Mạnh đã ra đi, thật bất ngờ. Có nhiều người bạn của anh Mạnh, trong nhóm chúng tôi ở San Jose, được tin do tôi báo, thay vì họ báo tin đó cho tôi. Phải chăng anh Mạnh muốn để tôi đưa tin này.

Lê Văn Mạnh (1942-2013)

Vĩnh biệt Minh Tuấn Lê Văn Mạnh, nguyện cho anh được an nhiên nơi cõi lạc.

Phúc Trung Huỳnh Ái Tông

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật Họp Mặt Tân Niên 2013



Hằng năm vào dịp Tất niên các bạn Cựu Sinh Viên Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật thường tổ chức Tất niên, để anh em gặp lại có dịp hàn huyên tâm sự, ôn lại những kỷ niệm thời đi học, đi dạy và thăm hỏi chúc sức khỏe cho nhau.

Cuối năm 2012, không tổ chức vì sợ tận thế chăng ?

Sang đầu năm 2013 anh Trọng tổ chức Tân niên, có Thầy Niên và 18 anh chị em tham dự


Cũng như thường lệ, năm nay anh Trần Hữu Hiếu ở Virginia gửi tặng hai chai rượu chát và nước trái cây lên men.


 Trong buổi tiệc, Nguyễn Hữu Nhân đọc bài thơ của Tôn Nữ Hỷ Khương


 Còn gặp nhau...

Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện đời như nước chảy hoa trôi,
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời.
Còn gặp nhau thì hãy cứ thương
Tình người muôn thuở vẫn còn vương,
Chắt chiu một chút tình thương ấy
Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường.
Còn gặp nhau thì hãy cứ chơi
Bao nhiêu thú vị ở trên đời,
Vui chơi trong ý tình cao nhã
Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời.
Còn gặp nhau thì hãy cứ cười
Cho tình thêm thắm, ý thêm tươi
Cho hương thêm ngát, đời thêm vị
Cho đẹp lòng tất cả mọi người.
Còn gặp nhau thì hãy cứ chào
Giữa miền đất rộng với trời cao,
Vui câu nhân nghĩa, tròn sau trước
Lấy chữ chân tình gửi tặng nhau.
Còn gặp nhau thì hãy cứ say
Say tình, say nghĩa bấy lâu nay
Say thơ, say nhạc, say bè bạn
Quên cả không gian lẫn tháng ngày.
Còn gặp nhau thì hãy cứ đi
Đi tìm chân lý - lẽ huyền vi
An nhiên tự tại - lòng thanh thản
Đời sống tâm linh thật diệu kỳ.

và hát bài Cát Bụi của Trịnh Công Sơn.

Thầy Niên chúc Tết, đại diện anh em đáp lời chúc lại Thầy.

Vào cuối năm 2013 này, anh Trầm Xua sẽ đứng ra tổ chức Tất Niên.

Hồ Ngọc Điển

Nhớ Về Trường Xưa



Mấy tháng trước, Blog Bông Tràm có gửi Email chung đến tôi, gợi ý viết bài cho Bông Tràm về nhà văn Mai Văn Tạo, tôi bận nên không viết được, vì đang viết Văn Học Miền Nam 1954-1975, mặc dù nhà văn Mai Văn Tạo là đồng hương, cũng là nhà văn ở trong thời kỳ đó.

Nay được điện thư của anh Hoàng Công Chương mời viết bài cho tập kỷ yếu của Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức sau 50 năm hoạt động, tôi nghĩ đó là nơi tôi đã học, tôi đã sinh hoạt ở đó trong những ngày đầu tiên, sau khi ông Hiệu Trưởng Trường Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ, tiếp nhận Trường vào năm 1972, và sau đó, có lẽ là năm 1984  tôi có dạy  vài tháng cho sinh viên chính quy và bồi dưỡng, cho nên dù bận cũng muốn đóng góp, hay dở xin độc giả lượng thứ cho, vì tôi hay viết chớ không phải viết hay.

Khi tôi nhập học vào Trường, tên tôi ở vào hạng dự bị chót, năm học đó 1964-1965, thi tuyển lấy chính thức 10 sinh viên và dự bị 2 sinh viên để đào tạo Giáo sư Trung Học Kỹ Thuật Đệ Nhứt Cấp, học trình 2 năm.

Dù đậu dự bị nhưng có mấy sinh viên lại trúng tuyển vào trường Kỹ sư Công Nghệ bỏ học, biết thế nên tôi xin vào học dự thính, trong lớp có 2 anh cũng trúng tuyển vào Kỹ sư Công Nghệ nhưng chọn học Sư Phạm Kỹ Thuật, đó là anh Nguyễn Văn Bài và anh Nguyễn Văn Hoạt, tổng cộng kể cả tôi chỉ có 7 sinh viên theo học, chừng tháng sau, anh Hoạt bỏ học, lớp chỉ còn lại vỏn vẹn có 6 người, gần đây tôi có liên lạc được, mới biết năm đó anh Hoạt được học bổng du học ở Pháp, rồi anh ở luôn làm việc bên ấy cho đến khi về hưu, năm nay tôi đi nghỉ hè ở Pháp, anh Hoạt có mời tới nhà anh ở thành phố Nante chơi vài hôm, nhưng rất tiếc, tôi không tới thăm anh được.

Vào học, tìm hiểu tôi được biết Trường được thành lập từ năm 1962 dưới thời ông Nguyễn Được làm Giám Đốc Nha Kỹ Thuật Học Vụ, địa chỉ 48 đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu), ông Trần Lưu Cung Phó Giám Đốc Nha, kiêm Giám Đốc Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, Trường dùng tạm cơ sở của Trường Bách Khoa Trung Cấp Phú Thọ cũng do ông Trần Lưu Cung làm Hiệu Trưởng, nghe nói ông Trần Lưu Cung là kỷ sư télécom ở Pháp về cùng đợt với ông Nguyễn Được, hình như vào năm 1959. Năm 1963 ông Nguyễn Được làm Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục, ông Trần Lưu Công lên làm Giám Đốc Nha, vài tháng sau nội các Nguyễn Ngọc Thơ đổ, ông Được bay luôn, sau năm 1975, vợ cũ ông Nguyễn Được người Pháp, bảo lãnh ông sang Pháp định cư. Ông Trần Lưu Cung có lúc làm Thứ Trưởng Giáo Dục, nội các ấy đổ, ông Trần Lưu Cung làm việc cho Unesco ở Côte d’Ivoire, sau này định cư ở Virginia.


Khi chúng tôi nhập học vào đầu niên khóa, thì khóa đầu tiên vừa mới ra trường, tôi không biết các anh là ai, nhưng sau này là đồng nghiệp, nhất là trong 2 lần Hội thảo Hè năm 1966 và năm1967, để định chương trình Kỹ Nghệ Họa cho các Trường Kỹ Thuật từ lớp 8 đếp lớp 12, qua đó chúng tôi quen biết nhau, tôi được biết, khóa này có 8 anh:

1) Anh Bùi Duy Trầm sau làm Hiệu Trưởng Trung Học Kỹ Thuật Vĩnh Long thay ông Lý Kim Chân về Nha Kỹ Thuật Học Vụ làm Phó Giám Đốc. 2) Anh Nguyễn Văn Hoa, giáo sư Trường Kỹ Thuật Vĩnh Long, sau làm Hiệu Trưởng Trung Học Kỹ Thuật Kiến Hòa, năm 1970 anh đi du học ở Mỹ lấy bằng Master, về dạy ở Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức. nay định cư ở Úc. 3) Anh Nguyễn Văn Huệ, giáo sư Trung Học Kỹ Thuật Y-ÚT tại Banmêthuột, sau làm Hiệu Trưởng Trường này từ năm 1969 đến năm 1974, sau anh từ chức, là Hội Viên Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục, nay định cư ở Washington State. 4) Anh Nguyễn Đức Lưu có lúc làm Giám Học Trung Tâm Chuyên Nghiệp Phan Đình Phùng, sau 1975 anh dạy Vẽ Kỹ Thuật tại Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức. 5) Anh Lương Sương Khen, giáo sư Trung học Kỹ Thuật Đà Nẳng, sau chuyển về Trường Cao Thắng, nay anh đã mất. 6) Anh Trần Phát Lạc tôi không nhớ đầu tiên anh dạy trường nào, sau đổi về dạy ở Cao Thắng cùng lượt với anh Lương Sương Khen. 7) Anh Phạm Minh Phước trước tôi không rõ anh dạy trường nào, sau anh chuyển về Trường Nguyễn Trường Tộ dạy cho đến khi về hưu gần đây. 8) Anh Lưu Đức Phương tôi không nhớ anh dạy trường nào, nhưng qua đời sau khi anh đi dạy vài năm.
Nguyễn Văn Huệ (Khóa 1 CĐSPKT 1962-1964)

 Khóa 2 nhập học niên khóa 1963-1964, khóa này hầu hết đều học chung với tôi từ đệ Thất đến Đệ nhị, sau đó tôi thi rớt Tú Tài I, nên các anh vào trước tôi một năm, khóa này có 2 anh Phạm Văn Tài và Lê Văn Mạnh đặc biệt năm Đệ Tam Kỹ Thuật, hai anh đỗ Tú Tài I phổ thông, nên được học Đệ nhất Kỹ thuật, đỗ Tú Tài II Kỹ thuật rồi thi vào Sư Phạm Kỹ Thuật, khóa này có mấy anh học 2 năm, còn lại hầu hết học 4 năm. 
Trần Hữu Hiếu (Khóa 2 CĐSPKT 1963-1967) và Tông

 Trong những anh học 2 năm có anh Nguyễn Hữu Chính sau làm Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật Sa Đéc, nay định cư ở Úc. Các anh học 4 năm sau khi tốt nghiệp, có anh Phạm Văn Tài, Lê Văn Mạnh được phân bổ về dạy ngay tại Trường Kỹ Thuật Cao Thắng, anh Lý Thất dạy trường Bách Khoa Trung Cấp còn số khác phân bổ về các trường xa thủ đô Sàigòn. Về sau anh Phạm Văn Tài làm Hiệu Trưởng Trường Nguyễn Trường Tộ, rồi thăng Chủ Sự Phòng Vật Tư, Nha Học Chánh Sàigon, anh định cư ở Oregon rồi mất ở đó năm 1999, sau khi tới Mỹ vài năm. Anh Lý Thất làm Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật An Giang (Long Xuyên), anh mất tại đây trên 10 năm rồi, anh Lê Kim Nghĩa làm Hiệu trưởng Trường Kỹ Thuật Kiến Phong (Cao Lãnh).

Khóa tôi là khóa 3, chỉ có 6 sinh viên, học mãn khóa 2 năm thì có 2 anh được giữ lại để học 4 năm, đó là anh Nguyễn Đức Lộc sau khi ra trường dạy ở Trường Kỹ Thuật Việt Đức, anh Nguyễn Văn Đước hình như ra Trường dạy ở Phước Tuy, sau làm Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật Tây Ninh, anh đã mất vài năm trước đây tại quê anh ở Phước Tuy. 

Huỳnh Ái Tông và Nguyễn Văn Bài (Khóa 3 CĐSPKT 1964-1966)

Bốn chúng tôi ra Giáo sư Đệ Nhất Cấp: 1) Anh Nguyễn Văn Bài chọn Trường Kỹ Thuật An Giang vì vợ sắp cưới của anh là Y tá ở Bệnh viện Long Xuyện 2) Anh Lương Văn Nhơn về Trường Kỹ Thuật Vĩnh Long, năm 1970 làm Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật Kiến Hòa thay anh Nguyễn Văn Hoa đi du học, nay anh Nhơn định cư ở Ohio. 3) Anh Trịnh Như Tích đi dạy ở Trường Kỹ Thuật Đà Nẵng sau chuyển về Trường Kỹ Thuật Gia Định, làm Giám Học Trường này, đặc biệt anh Trịnh Như Tích là thí sinh phổ thông lại trúng tuyển vào Ban Kỹ Nghệ Họa Sư Phạm Kỹ Thuật, theo tôi biết, từ ngày thành lập trường cho đến năm 1975 chưa hề có ai có thể trúng tuyển như ạnh. Thật là một kỳ tích, nay anh định cư ở San José, California. 4) Là tôi, chọn nhiệm sở Trường Kỹ Thuật Y-ÚT Banmêthuột, năm 1974 làm Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ, thay anh Phạm Văn Tài.

Sau khi tôi ra Trường, các khóa về sau tôi không được rõ lắm, chỉ biết năm 1974 khi làm Hiệu trưởng, tôi có nhận anh Nguyễn Văn Quyền, giáo sư Trường Việt Đức vào dạy giờ, từ đó anh với tôi quen nhau, sau này Trường Việt Đức sáp nhập vào Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức, nghe nói anh đã về hưu, nhưng vẫn còn dạy hay làm việc ở Trường cho đến nay.
 Ông Bà Nguyễn Đức Lộc (*), Thới, Tông (*), Quyền
(*): Khóa 3 Cao Đẳng Sư Phạm Kỷ Thuật
 Cho đến trước năm 1975, không hẹn mà chúng tôi tự nhiên soạn đủ một bộ sách dạy Kỹ Nghệ Họa cho học sinh Kỹ Thuật từ lớp 8 tới lớp 12.

- Lớp 8 Kỹ Thuật Toán và Chuyên Nghiệp soạn giả Lương Sương Khen và Nguyễn Đức Lưu.
- Lớp 9 Kỹ Thuật Toán và Chuyên Nghiệp soạn giả Huỳnh Ái Tông
- Lớp 10 Kỹ Thuật Toán soạn giả Nguyễn Đình Lâm
- Lớp 11 Kỹ Thuật Toán soạn giả Nguyễn Đình Lâm
- Lớp 12 Kỹ Thuật Toán soạn giả Phạm Văn Tài và Lý Thất.

Trước 1975, Ban Kỹ Nghệ Họa của Trường Sư Phạm Kỹ Thuật có ít nhất 10 anh làm Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật, trong đó có 1 anh dạy Đại Học (Nguyễn Văn Hoa), 4 anh làm Hiệu Trưởng Trường Đệ Nhị Cấp (Bùi Duy Trầm, Phạm Văn Tài, Lý Thất, Huỳnh Ái Tông). 5 anh làm Hiệu Trưởng Trường Đệ Nhất Cấp (Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Hữu Chính, Lê Kim Nghĩa, Lương Văn Nhơn, Nguyễn Văn Đước). Sở dĩ ban Kỹ Nghệ Họa được đề cử giữ chức Hiệu Trưởng vì có trình độ Tú Tài toàn phần, hầu hết đều đã học qua các ngành chuyên môn như: Nguội, Gò, Rèn, Hàn, Cơ Khí Ô-tô, Điện, Kỹ Nghệ Gỗ, Máy Dụng cụ cho nên dễ điều hành Trường từ giáo sư dạy các môn phổ thông cho đến hoạt động các xưởng.

Về Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật hiện tại, khi nhà thầu hoàn tất bàn giao cho Bộ Giáo Dục, ông Bộ Trưởng giao chìa khóa Trường cho ông Phan Kim Báu Hiệu Trưởng Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ, đang có chương trình sẽ sáp nhập chung với Ban Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật thành Trung tâm Giáo Dục Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ, lúc đó đang là mùa Hè, ban ngày có gác-dan trông nom Trường, ban đêm chúng tôi gồm giáo sư Trường Nguyễn Trường Tộ và Sư Phạm Kỹ Thuật có xe Trường chiều rước lên ngủ giữ Trường, sáng xe đưa về.

Thời gian đó, trong toán của chúng tôi có anh Lê Bá Thanh Trưởng phòng Hành chánh, trưởng toán, Hà Mộng Giao, Nguyễn Tấn Lợi, tôi và hai vị thuộc Sư Phạm Kỹ Thuật nay tôi không nhớ được, ở đó rất buồn tẻ vì Trường sở rộng thênh thang, mấy dãy lớp học, ký túc xá, xưởng, nhà kho, nhà Hiệu Trưởng … chỉ có mấy anh em mà thôi, chúng tôi buồn nên thả bộ ra trước Trường, con lộ chạy từ Xa lộ vào chợ Thủ Đức, có một cái quán Chiều Tím, không có tiếp viên, chị chủ là một quả phụ, có đứa con học nội trú ở Trường Kỹ Thuật Nghĩa Tử, nên tiếp đãi chúng tôi ân cần hoặc khi uống cà phê, hoặc khi uống bia.

Một đêm, sau khi ổn định chỗ nằm – tôi nằm ở ngoài hành lang, bên cạnh anh Thanh, anh Lợi nằm trong lớp Kỹ Nghệ Họa – anh Lợi và tôi ra quán Chiều Tím, mỗi người uống một chai bia “con cọp” rồi vào Trường đi ngủ, sở dĩ anh Nguyễn Tấn Lợi đi với tôi vì anh là người Long An nhưng “chuột sa hủ nếp”, anh không kể rõ, tôi chỉ biết anh được gia đình giàu có họ Phạm ở Long Xuyên cho anh đi du học ở Pháp, sau khi anh về nước, anh cưới con gái nhà họ Phạm đó, nhưng vì lý do gì tôi không rõ, khi tôi thuyên chuyển về Trường Nguyễn Trường Tộ năm 1970, hai vợ chồng anh Lợi đã ly thân, ban ngày anh dạy học, ăn cơm quán, tối ngủ tại Trường, anh có thằng con trai đang học trong Trường. Biết tôi là người Long Xuyên, đồng hương của vợ anh, nên anh mến tôi, có đêm tôi đã ngủ tại Trường, anh đánh thức tôi bằng được, đưa cho một gói giấy, trong đó có con cua biển luộc và một chai bia “con cọp”, anh bảo tôi: “Uống đi! Tôi chỉ mang về cho chú mầy thôi !”. Tôi đành phải ăn con cua luộc lạnh tanh, nhưng hớp bia vào cũng đỡ. Tình anh với tôi lạt hay nồng ấm ở chỗ đó.

Đêm ấy khoảng nửa khuya, tôi bị anh quấy rầy không ngủ được, nằm trong mùng tôi nhìn thấy anh mặc quần đùi đen, đi tới đi lui quanh quẩn chỗ chúng tôi ngủ, giọng tức bực chửi:

- Đ.M. Giờ này không cho người ta ngủ! Phá quá vậy ! …..

Tôi sợ anh làm mất giấc ngủ của người khác, mai họ còn phải đi dạy đi làm, tôi chui ra khỏi mùng hỏi anh:

- Anh Lợi! Khuya rồi sao anh không ngủ đi, uống có một chai mà !

- Ừ ! Vậy mới nói, tôi tỉnh chớ có say sưa gì đâu !

- Vậy thì chuyện gì xảy ra, anh kể cho tôi nghe đi!

- Nó kéo tôi xuống.

Tôi bắt đầu hiểu mơ hồ, nên nói với anh:

- Nói rõ đầu đuôi dùm đi, anh nói không đầu không đuôi ai mà hiểu.

- Tôi nằm ngủ, bổng thấy có cô gái mặc nguyên bộ quần áo trắng, tóc xỏa dài, kéo chân tôi, từ trên bàn, thân  tôi thiếu điều rớt xuống đất, tôi phải bỏ chạy ra đậy

- Vậy bây giờ anh tính sao ?

- Còn sao nữa, vào lấy quần áo ra đi chỗ khác ngủ.

- Vậy là anh không dám trở vô phòng chớ gì ? Đi với tôi.

Tôi đi trước, anh Lợi theo sau, phòng anh ngủ là lớp đầu tiên nằm bên tay phải, anh đã mở tất cả 72 ngọn néon một thước hai, đèn sáng choang, bốn cây quạt máy trên trần quay vù vù. Tôi thật không ngờ anh từng đi học khóa sình lầy ở Mã Lai, vậy mà chạy bỏ quần, bỏ áo cũng lạ !

Vài năm sau, tôi mới biết chuyện ấy chẳng có gì lạ, lạ là tại vì tôi không biết chuyện gì hết. Tôi chỉ biết Trường cất trên một nghĩa địa cũ, còn chuyệm tiêp theo tôi không hề biết là: Trường do hãng thầu của Nam Hàn cất, họ có trách nhiệm di dời các ngôi mồ vô chủ, san bằng tất cả cây cối ở trong khu vực xây cất của Trường, việc tiến hành sắp hoàn tất, chỉ còn một cây cuối cùng, họ đem máy cưa tay đến cắt, máy cưa bị đứt xích, họ dùng một xe ủi cơ giới chạy tới để ủi cho cây ngã, trên đường chạy tới gốc cây, xe ủi bổng bị lọt tỏm xuống hầm, hầm đó vốn là ngôi mộ cũ đã bốc, rồi họ đi xin thuốc nổ TNT, sau khi mồi lửa vào dây cháy chậm, dây chỉ cháy một đoạn mà không cháy tới ngòi nổ, nên thuốc nổ TNT không nổ.

Ông Giám Đốc Nha Kỹ Thuật Học vụ Lý Kim Chân, chủ công trình thấy chuyện cũng lạ, trong bữa cơm chiều ở nhà, ông kể chuyện cho gia đình nghe, bà thân ông có ý kiến:

- Con à ! Con là người chủ công trình, nếu con có toàn quyền, con không nên đốn cây ấy, bởi vì có những điềm không nên đốn, nếu đốn có khi có hại cho con.

Ông Lý Kim Chân nghe lời mẹ khuyên, nên quyết định chừa lại, cho nên Trường cất xong, toàn khu vực Trường có một cái cây còn lại bên cạnh dãy lớp, không phải ở sân trước mà cũng chẳng phải ở sân sau.

Anh Phan Kim Minh, con ông Phan Kim Báu, giáo sư ở Trường Kỹ Thuật Vĩnh Long, nghĩ Hè ở nhà, nghe chuyện lạ về cái cây, một đêm kia anh theo xe Trường với chiếc áo mưa, trọn đêm nằm ngủ dưới gốc cây ấy. Khi tôi biết chuyện này, chưa gặp anh Minh để hỏi anh về chuyện một đêm nằm sương bên gốc cây kia.
Anh Nguyễn Tấn Lợi còn kể nhiều chuyện tiếu lâm, tôi được nghe cũng khá thú vị. Nhưng chỉ có thể kể về chuyện một hàn nho tả cảnh nghèo của gia cảnh mình, nghèo quá nghèo, không có chi để ăn trong bữa ăn, cũng chẳng có gạo để nấu:

Chó đứng chực xương rơi nước mắt,
Chuột nhìn hủ gạo rụng lông nheo.

Sau mấy tháng tối đi sáng về, anh em mới ngộ ra, từ Sàigòn lên Thủ Đức xa 12 cây số, nhưng ngày nào kẹt dạy chỉ có 2 giờ mà phải sang sớm đi theo xe Trường, chiều tối mới về, mất cả một ngày, ai cũng có giờ dạy tư ở Sàigòn và Trường đẹp sẽ là Trường Sư Phạm Kỹ Thuật chớ không phải của Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ, nên Hội Đồng Giáo Sư Trường họp lại quyết định nhường hẳn ngôi Trường mới là ngôi Trường do Tòa Đại Sứ Mỹ lấy cơ sở Trường tại số 25 bis Hồng Thập Tự nay cất Trường mới đền bù, và tự nguyện xin ở lại trong khuôn viên của Nha. Nha chấp thuận nguyện vọng của Trường, cũng chấp nhận cho ai muốn chuyển lên Trường mới, cho nên chỉ có mỗi mình anh Vũ Đình Lệ giáo sư Kỹ Nghệ Gỗ xin chuyển mà thôi.

Năm 1983 hay 1984, tôi làm việc ở Công Ty Trang Bị Kỹ Thuật thuộc sở Công Nghiệp ở cư xá Brink nay là khách sạn Hyatt, Trường đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thử Đức có gửi toàn bộ sinh viên mônVẽ Kỹ Thuật, để anh em chúng tôi hướng dẫn sinh viên làm đồ án tốt nghiệp, chúng tôi có anh Đỗ Võ Quang Master ở Mỹ, anh Trần Quang Thành, Nguyễn Văn Hòa, Kỷ sư Công nghệ Phú Thọ và tôi.

Sau đó, tôi được mời giảng môn Vẽ Kỹ Thuật cho một lớp chính quy và một lớp bồi dưỡng giáo viên dạy Vẽ Kỹ Thuật. Thời gian đi dạy này sáng đi xe Trường, chiều theo xe Trường về, tôi gặp lại giáo sư Khai, giáo sư Duyên những vị Thầy xưa kia dạy ở Cao Thắng và gặp lại các bạn Tô Ngọc Trí, Bùi Văn Thanh Tâm cùng học Sư Phạm Kỹ Thuật. Lúc đó tôi là Trưởng Phòng Công nghệ, đang có công tác lắp ráp máy ép dầu của xí nghiệp công tư hợp doanh Trương Văn Bền bán cho xí nghiệp 1 tháng 5 ở Bến Tre, đây là một máy ép dầu của Mỹ, công suất lớn, tôi phải đi đi, về về, ngày đó đi xe đò phải có Giấy Giới Thiệu, phải xếp hàng rồng rắn, tôi phải bỏ dạy Sư Phạm Kỹ Thuật, không lời từ giã với anh Nguyễn Đức Lưu, khi ấy anh đang dạy ở đó.

Ngày tôi vào Ban Sư Phạm Kỹ Thuật đến năm nay đã 48 năm. Ngày xưa một Sinh viên vào học Sư Phạm mỗi tháng đều có học bổng một ngàn đồng, sau khi ra Trường phải làm việc trả lại 10 năm, tính ra tôi ra Trường năm 1966, đến năm 1975 không còn dạy học nữa, vậy là tôi còn món nợ 1 năm. Năm 1981, ông Lê Thành Phụng Giám Đốc Sở Công nghiệp Thành phố HCM, chỉ định tôi trở về trường cũ đảm nhận chức vụ Hiệu Phó chuyên môn Trường Kỹ thuật Nghiệp vụ Thành phố HCM, nhờ vậy tôi trả đủ món nợ năm xưa.

Bao nhiêu năm, cầm phấn trắng vẽ trên bảng đen, giảng dạy cho các em, tôi chỉ mong các em phải vượt qua, vượt qua tôi, mấy năm gần đây Ngày Nhà Giáo các em học sinh cũ tổ chức ở nhà hàng mời tôi tới dự, tôi tới không phải để nghe các em bày tỏ chân thành lời cám ơn, hay nhận một lẵng hoa, một món quà tình nghìa, mà tôi tới dự để tìm hiểu các em đã  thành công thế nào, được biết có học sinh cũ nay là bác sĩ, là kỷ sư, là Giám đốc là Phó Tổng Giám Đốc, có một học sinh cũ vừa mới liên lạc với tôi, tôi được biết em này có bằng PhD của Trường Stanford, ở California, em ấy là một trong vài người đã viết Software WinVNKey, để gõ chữ Việt, Hán, Nôm, hiện tôi đang dùng để gõ bài này. Cũng là một niềm vui nhìn thấy kết quả của mười năm nghề giáo của mình.

Đôi lần tôi được về thăm Trường xưa, nhìn Giảng Đường, lớp học, ký túc xá, cái cây năm nọ chạnh nhớ tới anh Lê Bá Thanh, đã nằm xuống ở San Jose, anh Nguyễn Tấn Lợi định cư ở Pháp, còn hay mất không nghe ai nhắc tới.

Tôi có được vào các xưởng mới cất thêm do chánh phủ Đức, Áo cũng như vài Công ty kỹ nghệ ngoại quốc tặng máy móc cho Trường, do đó Trường xây cất thêm, kiến tạo nên bộ mặt mới với hàng ngàn sinh viên, nhìn thấy họ tràn đầy sức sống, nghĩ lại mình đã gần nửa thế kỷ trôi qua.

huynhaitong@gmail.com