Thứ Ba, 9 tháng 2, 2016

Bên đường Mimosa



Biết tôi thích giang hồ, Thịnh mời tôi theo chàng một chuyến đi Đà Lạt. Tôi không hỏi Thịnh đi có việc chi, chỉ hỏi đi xe đò hay đi xe nhà.

Thịnh thích đi xe đò nằm, lên xe vào khoảng 9, 10 giờ đêm, ngủ trên xe một giấc tới Đà lạt vào sáng tinh mơ, trời còn đầy sương mù, người ta tập thể dục đi quanh bờ hồ, cũng có những người buôn gánh, bán bưng hối hả ra chợ để bày hàng.

Nếu đi xe nhà, Thịnh ngủ một giấc cho tới gần 4 giờ sáng, rồi khởi hành theo đường cao tốc thành phố ra Dầu Dây, xe chạy trong đêm, ra tới Định Quán trời tờ mờ sáng. Đến Lâm Đồng trời đã sáng, Thịnh thích ghé một quán ăn bên tay phải, cách chùa Phước Huệ ba, bốn căn phố, bên tay trái là cái hồ nước, ven bờ hồ dọc theo lộ người ta trồng những cây trổ hoa màu đỏ thẩm, tương phản với lá xanh rất đẹp.

Quán ăn nầy bán món ăn không đặc sắc lắm, nhưng sáng sớm quán cho khách uống những bình trà tươi, có thêm những lát gừng, tao ra hương vị đặc biệt, được thưởng thức một lần, khó quên hương vị đó.

Lần nầy Thịnh không đi xe đò, chàng tự lái xe, y như hẹn đến nhà rước tôi gần đúng 4 giờ sáng. Cả hai chúng tôi đều tỉnh táo, Thịnh lái xe, tôi ngồi bên thỉnh thoảng trao đổi chuyện trò để không cảm thấy chán khi đi trên đường dài.

Khi xe chạy đến Phương Lâm, trời cũng đã sáng, bên đường hàng quán đã buôn bán, tôi bỗng nhớ tới Trường một người bạn tù thời cải tạo, thỉnh thoảng anh ta hay lắc cái đầu cho nên bạn bè gọi anh ta với biệt danh Trường Lắc. Sau khi được ra khỏi trại tù, anh ta theo xe đò của gia đình, chạy đường Sàigòn – Phương Lâm, cái thời xe chạy than ấy, bạn hàng buôn chuyến, chở hàng hóa nào là than, đậu, bắp, cà phê, tuy có cực thân, nhưng Trường Lắc đà hốt bạc và kiếm chác, lợi dụng đôi khi cũng giúp đỡ những bạn hàng buôn chuyến.

Đến Bảo Lộc, Thịnh và tôi tìm không thấy cái quán kia, hỏi thăm người lân cận đó, họ cho biết quán đã dẹp rồi, chúng tôi đành phải đi ăn sáng ở quán khác, rồi mới tiếp tục lái xe lên đường tới Đà Lạt.

Chúng tôi trọ ở khách sạn gần khu chợ Hòa Bình. Buổi chiều Thịnh đi thăm người quen, tôi thả bộ ra chợ, tìm quán uống cà-phê rồi đi quanh bờ hồ để nhớ lại những năm tháng xa xưa, có một lần khi còn trẻ, thời sinh viên tôi đã lên thành phố nầy tham quan vài ngày, trong đó có ngày cuối tuần, nam thanh nữ tú của xứ sở nầy đã đi dạo chơi, nhiều chàng trai trong quân phục thẳng nếp màu vàng, từ những quân trường thanh lịch dạo phố, không hẹn mà tôi được gặp Duyên, nàng từ Sàigòn lên thăm người anh đang thụ huấn ở quân trường.

Tránh nơi đông người, rời cà-phê Tùng, chúng tôi đi dạo quanh hồ. Chia tay lần đó, chúng tôi không còn gặp lại, hỏi thăm bạn bè, có người cho biết gia đình đã cho nàng đi du học, chưa được bao lâu, chẳng may nàng bị tai nạn, mất tại xứ người. Cho nên lần nầy tôi muốn đi lại con đường xưa để tìm về kỷ niệm đẹp một thời.

Tôi đi được một đoạn đường, Thịnh gọi điện thoại muốn đưa tôi đi thăm một vườn ươm cây, nhân dịp Thịnh đi mua một số cây trồng.

Thịnh đón tôi ở dọc đường, rồi chúng tôi chạy qua phía bên kia hồ, để theo con đường Mimosa quanh co hướng về chân đèo Prenn.

Đường Mimosa là con đường xưa kia bác sĩ Alexandre Yersin đã theo đó để lên thành phố Đà Lạt, từ thác Prenn con đường nầy chạy dưới thung lũng dẫn lên thành phố, cảnh trí không đẹp bằng con đường qua đèo Prenn, nên trước đây người ta ít đi con đường nầy, gần đây nhà cầm quyền sửa sang lại, nên cũng có xe cô qua lại. Những năm gần đây nhà cầm quyền khuyến khích, người dân trồng những cây hoa Mimosa dọc theo con đường nầy, vào khoảng tháng 11 hoa Mimosa nở rộ vàng cả một đoạn đường dài, nên con đường nầy được gọi tên là đường Mimosa, tuy nhiên vì ít nhà dân cư, nên đường cũng vắng vẻ. 


Thịnh lái một đoạn xa thành phố non 10 cây số, rồi quẹo tay phải để vào một vườn ươm cây, là chỗ hai bên quen biết nên Thịnh được chủ nhân đón tiếp niềm nở, tôi cùng được ân cần đón chào.

Chủ nhân mời chúng tôi dùng trà, rồi gia chủ và Thịnh trao đổi nhau về mùa màng, thời tiết, về một số cây giống mới, những giò lan rừng, cả hai say sưa trao đổi nhau quanh câu chuyện nghề nghiệp.

Chuyện cũng khá lâu, thấy trời sắp tối nên Thịnh và gia chủ gom những chậu, những cây giống chất lên xe để chúng tôi trở vào thành phố dùng cơm chiều và nghỉ ngơi.

Sau khi từ giả gia chủ, chúng tôi lên xe từ từ lăn bánh ra đường Mimosa, đoạn ấy chỉ vài trăm thước, xe chưa ra tới đường thì trời đỗ cơn mưa, buổi tối ập đến nhanh chóng, Thịnh phải mở đèn, mở gạt nước để thấy đường chạy, xe vừa lấy trớn để lên dốc thì chết máy, Thịnh tắt đèn, tắt gạt nước, cố khởi động máy mấy lần, nhưng máy vẫn chẳng nổ, Thịnh không dằn được cơn bực tức:


- Sao mà trở chứng thế nầy!! Nhè lúc trời lại mưa !!

866428012015
Làm khách không mời

Ngẫm nghĩ một lúc Thịnh nói với tôi:

- Ngồi trên xe chẳng có ích lợi gì, cũng không hy vọng đón được xe về thành phố, hay là chúng ta lội bộ vào nhà ông Quang, xem ông có quen ai, gọi dùm người đến sửa xe.

- Ý kiến anh hay đó ! Nếu mưa dai dẳng, chúng ta không thể rời đây được thì kiếm bữa cơm cho đỡ dạ.

Thịnh vói tay ra phía sau lấy cái áo đi mưa đưa cho tôi và nói:

- Khoa mặc tạm cái áo mưa nầy! Nếu không thì ướt hết quần áo lạnh lắm.

- Còn Thịnh ?

- Tôi có chiếc jacket giả da nầy, vừa ấm vừa chống nước. Thôi ta đi !

Nói xong, Thịnh bước xuống xe, đóng cửa lại rồi lầm lủi đi vì trời mưa nên không chờ đợi tôi. Tôi đóng cửa xe, khoát chiếc áo mưa rồi đi theo, thấy bóng Thịnh lờ mờ qua màn mưa cách tôi chừng 20 thước.

Đi một chốc trời mưa nặng hột hơn, tôi không nhìn thấy bóng Thịnh trong màn mưa khi có tia chớp, tôi cũng cứ đi. Đi thêm một đọan nữa, tôi thấy có ánh đèn từ trong nhà dọi ra, tôi nghĩ đã đến nhà ông Quang vì lúc ra về, cũng từ hướng đó xe chúng tôi chạy ra.
Đến chiếc cổng gỗ, tôi thấy cổng khép hờ, nghĩ là Thịnh đã vào, chừa lối cho tôi đi, bước qua cánh cổng, tôi khép lại rồi mới đi vào nhà ông Quang.

Bước lên thềm trước cảnh tranh tối tranh sáng, tôi mới nhận rõ đây không phải là nhà ông Quang, đây cũng là ngôi nhà ba căn gọn nhỏ, gian giữa để một bộ salon gỗ thông, gian bên phải có bộ ván, gian bên trái có treo chiếc võng bằng vải dù, qua khỏi đó, có tấm vách ngăn từ dưới nên lên chừng non ba thước, có một cửa thông nơi gian có mắc võng, cửa thông ấy có treo tấm màn vải màu xanh da trời nhạt, ngọn đèn chừng 60 watts treo quá đầu, bên trên bộ salon, ánh sáng soi đủ phần phía trước trong nhà, phía sau vì màn và vách ngăn, nên tôi không trông thấy được.

Chủ nhân nằm trên võng, đầu ở phía vách có cửa sổ đã đóng kín, mặt quay ra cửa chính, nên đã trông thấy tôi đi vào, nên vói tay nắm chiếc vòng để lấy đà đứng lên. Tôi thoáng thấy đó là người đàn ông, tuổi ngoài sáu mươi, tóc bạc nhiều, người cao ráo và mảnh khảnh, ông ta nhanh nhẩu chào hỏi tôi:

- Chào chú em! Bên ngoài trời đang mưa, chú em vào đây chắc lỡ đường phải không?

Tôi chào đáp lại và giải thích nhanh:

- Chào chú, cháu và người bạn từ nhà ông Quang ra, chẳng may xe bị chết máy, nên quay trở lại, vì trời mưa và tối nên vào nhầm nhà.

- Quý hóa! Nhờ chú em nhầm nhà, nên tôi hân hạnh có khách. Chẳng khách sáo chi, mấy khi mới có khách tới nhà. Tôi tên Thiện, hàng xóm với ông Quang ấy mà.

Ông Thiện đi đến ghế salon phía bộ ván, gần chỗ tôi đứng ở ngạch cửa, kéo chiếc ghế ra ân cần vừa nói vừa chỉ cho tôi thấy:

- Chú cỡi áo mưa ra máng tạm cây đinh nơi cột, ngồi đây uống chén trà cho ấm.

Tôi vừa giới thiệu mình vừa cỡi áo mưa ra máng vào cây đinh ở cây cột nhà dựa cửa:

- Cháu là Khoa, đi cùng với anh Thịnh là khách hàng của ông Quang.

Vừa nói, ông Thiện vừa rót nước từ trong bình trà. có vỏ giữ ấm ra hai cái tách sứ tráng men trắng điểm hoa màu tím.

- Tưởng là ai, anh Thịnh tôi biết, vui tánh dễ thương.

Ông Thiện nhắc lại:

- Ngồi xuống đi, đừng khách sáo, uống miếng nước cho ấm, rồi chúng ta nói chuyện trước lạ sau quen mà.
866429012016

Uống rượu đêm mưa

Tôi vừa cầm tách nước lên vừa nói:

- Xin mời chú!

Ông Thiện đi lại chiếc ghế phía có cửa buồng, vừa ngồi xuống ghế vừa nói:

- Cứ tự nhiên. Xin cho hỏi đã dùng cơm chiều chưa ?

Tôi vừa uống ngụm chè tươi, nước chè vừa nóng lại có hương vị của gừng, giống như chè tươi tôi đã được dùng ở Bảo Lộc dạo nào, tôi chậm rải đáp:

- Dạ ! Thịnh và cháu định ra chợ dùng cơm, xe hư lại mưa như thế nầy, chắc tối nay phải ăn trễ rồi !

Ông Thiện nhìn ra cửa, suy nghĩ gật đầu vài cái rồi nói:

- Xin lỗi tôi dùng cơm chiều từ sớm, nhà không có thức ăn. Cháu đến võng nằm nghỉ, trong khi chờ đợi, tôi vào trong nhóm lửa, nướng miếng khô Nai, nhà còn chai rượu, có mồi chúng ta uống lai rai vài chung cho ấm bụng.

- Phiền chú quá

- Có chi mà phiền! Vậy đi nghe. Bước lại võng nằm đi !

Ông Thiện vừa đi vừa ngâm thơ cổ:

Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách,
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.

Tôi bước lại võng nằm, nghe tiếng mưa rơi từng cơn lòng cảm thấy buồn. Tôi nghĩ, giờ nầy không biết Thịnh đang làm chi, có thể Thịnh nghĩ tôi sợ đi mưa ướt nên ngồi lại xe.

Chừng 10 phút sau, ông Thiện bưng ra cái dĩa với hai đôi đủa, mùi khô Nai thơm lừng, gợi cảm cho bao tử tôi thấy đói và thèm ăn. Ông Thiện để dĩa khô trên bàn rồi vào trong đem ra, một tay cầm hai cái ly thủy tinh “xây chừng”, tay kia cầm chai rượu, đặt hết xuống bàn xong, ông nói:

- Xin mời !

Ông vừa ngồi xuống ghế, tôi cũng rời khỏi võng, bước đến ngồi vào chiếc salon khi nảy, ông Thiện rót ra ly trước mặt tôi trước. Tôi có dịp quan sát, rượu rót ra màu trắng, tôi đoán chắc là rượu đế, tửu lượng tôi không cao, nhưng có thể uống chừng 3, 4 cái xây chừng, đủ để cả hai uống hết chai rượu đã lưng còn chừng nửa chai.

Khô Nai màu đỏ, do người ta ướp gia vị và phẩm màu với những hạt mè vàng, Khoa gắp từng miếng nhai để thưởng thức hương vị khô Nai, tựa lưng vào ghế cho thoải mái, thỉnh thoảng lại cùng ông Thiện nâng ly.

Khoa chập chờn nghe như có tiếng ông Thiện mời gọi nâng ly, lại nghe như có tiếng Thịnh từ đâu đó vọng lại.
866430012016

Trở về

Tôi giật mình chợt tỉnh vì bị ánh dèn pin rọi vào mặt, lại bị lắc vai. Khi tỉnh táo lại tôi mới biết mình ngồi tựa vào gốc cây, gần bên trái là đống tro tàn, bên tay phải có cái chai không nằm trong tay tôi. Tôi buông tay ra, cái chai ngã ra nền đất, nhìn lên thấy ông Quang và Thịnh đứng cạnh đó, bên trên đầu họ là mái che với vài tấm tôn, xung quang trống trải. Thịnh hỏi:

- Sao không vào nhà ông Quang, mà lại ngồi đây ngủ ? Không lạnh sao Khoa ?

Tôi không biết phải giải thích sao cho hai người tin, ậm ừ đáp:

- Cũng không lạnh lắm, nhờ có đống tro tàn, tôi muốn ngồi để nghe tiếng của rừng thông, rồi ngủ quên đi.

- Có thấy cô thôn nữ nào không ở cái mái che nầy?

Tôi chưa kịp trả lời thì ông Quang hối:

- Thôi chúng ta về nhà, còn ăn cơm kẻo nguội.

Tôi đứng lên đi theo ông Quang, Thịnh cầm đèn pin đi sau, theo con đường mòn đi về nhà ông Quang.

Vừa vào nhà thì có người trùm áo mưa, cũng đi theo vào nhà. Tại cửa có ánh sáng, anh ta đưa xâu chìa khóa cho Thịnh và nói:

- Xe anh không có hư chi hết, tại cọc bình long ra, không tiếp điện tốt, tôi đã siết chặt rồi, giờ thì bảo đảm.

Thịnh hỏi ngay:

- Anh tính bao nhiêu ?

- Dạ không có bao nhiêu ! Bác Quang đã cho trước rồi.

Thịnh móc túi đưa cho anh chàng một ít tiền lẻ nói:

- Trời mưa lạnh, anh cầm cái nầy uống cà-phê cho ấm. Cám ơn anh nhiều lắm nghe!

- Cám ơn anh.

Khi Thịnh và anh thợ sửa xe trao đổi với nhau, ông Quang vừa cởi chiếc áo khoác vừa nói với tôi:

- Anh lạnh lắm không ? Nếu không thì cởi áo ra cho thoải mái, chúng ta dùng cơm.

Nói xong ông kéo ghế ra ngồi, tôi cởi áo móc vào cái giá móc áo treo ở cây cột gần đó. Người thợ sửa xe chào mọi người đi ra, Thịnh quay vào, cởi áo khoác, móc lên cái móc áo, rồi đến bàn ngồi cạnh tôi, đối diện với ông Quang, Thịnh hỏi ngay:

- Sao lại có cái chòi chỗ đó chú Quang !?

Ông Quang cầm đủa lên, hối thúc:

- Cầm đủa đi anh Khoa, chúng ta vừa ăn vừa nói chuyện, bên ngoài trời sắp dứt cơn mưa, hai anh không ăn thì tôi làm sao ăn hết, nhà tôi phiền lắm đó nghe!

- Chú đừng lo, chúng tôi sẽ ăn hết thức ăn trên mâm nầy, ăn khỏi trả tiền mà, chỉ sợ thím phải nhịn miệng đài khách.

- Đừng lo! Đừng lo! Nhà tôi sẵn sàng và vui lòng, nhưng không bị đói đâu mà sợ, vì đã có nấu thêm cơm rồi.

Thịnh nhắc ông Quang:

- Còn chuyện cái chòi ?

Ông Quang như vả lả hay để gây cho chúng tôi thêm mong đợi:

- Chờ chút ! Tôi thấy thiếu chất ấm, cây nhà lá vườn đặc sản Đà Lạt, thiếu cái nầy là thiếu tất cả đó nghe.

Thấy ông Quang lấy từ trong tủ thờ ra chai rượu vang đỏ, Thịnh nói ngay:

- Đúng là đặc sản Đà Lạt.

Chúng tôi vừa ăn, ông Quang vừa kể chuyện:

- Còn chuyện cái chòi có chi đáng nói, như Thịnh vào đây chắc thỉnh thoảng có thấy một ông già người dân tộc tên là Y Niêng, ông ta ở Buônmêthuột lang bạt giang hồ, rồi trụ lại đây, giúp tôi làm vườn đã mấy năm, ông ta thích ở ngoài hơn là ở trong nhà, nên tôi che cái chòi cho ông ta ở tạm, cách nay bốn năm tháng, ông ta cho tôi biết, ông ta nhớ núi rừng muốn trở về bản làng. Rồi ông ta từ giả chúng tôi, từ đó không thấy trở lại, cái chòi tôi vẫn để đó chưa dẹp bỏ, để có khi buổi trưa ngồi nghỉ hút điếu thuốc, hoặc trời mưa vào đó ngồi trú mưa.

Tôi vội hỏi ngay thắc mắc của mình:

- Vậy trước và sau Y-Niêng không có ai ở đó ?

Ông Quang cầm ly rượu lên, mời mọi người uống:

- Nào chúng ta nâng ly !

Ông uống một hớp, Thịnh và tôi cũng cầm ly lên uống theo, với tôi rượu chát nầy không đến nổi tệ, cũng có vị ngọt, không nồng lắm. Ông Quang tiếp:

- Trước Y-Niêng chưa có cái chòi, sau Y-Niêng như đã nói, chỉ thỉnh thoảng có tôi mà thôi.

Ông Quang nhìn tôi đầy thắc mắc, tiếp:

- Chú Khoa đừng nói với tôi là có cô thôn nữ nào ở đó nghe! Chòi rỗng toát mà, có âm u gì đâu !

- Sao Khoa lại hỏi vậy ?

- Thịnh không thấy lúc tôi chợt tỉnh, tay còn cầm chai rượu sao ?

Thịnh trả lời ngay:

- Tôi lo nhìn mặt Khoa đang ngủ, mà không để ý tay chân.

Ông Quang nói:

- Tôi có thấy cái chai nằm cạnh chú Khoa mà không để ý, vì khi Y-Niêng ở đó, ông ta chắc thèm rượu cần, nên mua rượu đế đựng trong chai, thỉnh thoảng uống một tí trước mặt tôi và cũng có mời tôi, nhưng tôi chưa bao giờ uống, chẳng biết ngon hay dở, nhưng chắc là không ngon.

Tôi buột miệng nói, không suy nghĩ:

- Rượu đế ! Còn ông Thiện và khô Nai.

Thịnh như nghe không rõ, hỏi lại tôi:

- Khoa muốn ngự thiện khô Nai uống rượu chát phải không ?

Tôi không muốn cải chính, nghĩ là nên im lặng cho qua chuyện. Qua một đêm uống hai lần rượu. Người thì không, nhưng rượu chắc là thật.
866431012016